

LTS: Kỷ nguyên số bắt đầu bằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (4.0) đang đặt ra những thách thức khó khăn, đặc biệt là đối với vấn đề an ninh trật tự và tội phạm mạng ở nước ta hiện nay. Tuy chỉ mới xuất hiện trong khoảng một thập kỷ, nhưng dưới sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, của Internet, tội phạm mạng đã phát sinh, tồn tại và phát triển nhanh chóng tại Việt Nam. Hiện tại, tình hình tội phạm mạng đang tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, xảy ra trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước. Bài viết sẽ làm rõ về kỹ thuật và phương pháp điều tra tội phạm mạng trong việc đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này trong thời đại công nghiệp kỷ nguyên số.
Hiện nay khái niệm “tội phạm mạng” được pháp luật của nhiều nước trên thế giới như Australia, Mỹ, Anh… đề cập đến như: Tội phạm công nghệ cao (high-tech crime); tội phạm máy tính (computer crime): Tội phạm liên quan đến máy tính (computer-related crime); tội phạm mạng (cybercrime)...
Ở Việt Nam, theo Khoản 1 điều 3 Nghị định số 25/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/04/2014 quy định: “Tội phạm mạng là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự có sử dụng công nghệ cao”.
Trong đó công nghệ cao được hiểu là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa ngành sản xuất, dịch vụ hiện có.
Có thể hiểu tội phạm mạng là tất cả các hành vi liên quan đến việc sử dụng máy tính, thiết bị số, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông để gây tổn hại cho lợi ích của các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội. Thực tế tại Việt Nam thì tội phạm mạng còn tác động đến thông tin và dữ liệu điện tử được lưu trữ, truyền phát trong mạng viễn thông và thiết bị số (Điều 293 – BLHS). Về bản chất, tội phạm mạng là tội phạm sử dụng tri thức, kỹ năng, công cụ, phương tiện công nghệ ở trình độ cao tác động trái pháp luật đến thông tin, dữ liệu, tín hiệu được lưu trữ, xử lý, truyền tải trong hệ thống mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị số, xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại lợi ích của Nhà nước, quyền và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Với nhận thức như vậy, hiện nay ở nước ta các kỹ thuật và phương pháp điều tra đối với tội phạm mạng đã được nhận diện và luật hóa. Năm 2011,tội phạm mạng xảy ra trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế - xã hội, tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn là Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và đang lan ra các tỉnh, thành phố khác như: Hải Phòng, Đồng Nai, Bình Dương, Phú Yên...
Phần lớn đối tượng phạm tội là học sinh, sinh viên có kiến thức và đam mê công nghệ thông tin, một số ít là cán bộ, công chức. Chúng thường tập hợp, liên kết với nhau thông qua các diễn đàn trên mạng internet (còn gọi là underground hay thế giới ngầm) để chia sẻ công cụ, cách thức, thủ đoạn phạm tội. Vì vậy, thủ đoạn ngày càng tinh vi, kín đáo và có sự thay đổi phương thức liên tục nhằm lẩn tránh sự phát hiện của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Sự liên kết giữa các đối tượng trong và ngoài nước ngày càng thể hiện rõ nét. Tội phạm công nghệ cao diễn ra trên cả lĩnh vực an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hình ảnh của Việt Nam trong một số lĩnh vực quan hệ kinh tế quốc tế và gây thiệt hại lớn cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước.
Năm 2016, Việt Nam đã có tổng cộng khoảng 145 nghìn cuộc tấn công mạng khác nhau nhằm vào hệ thống thông tin với ba hình thức chính đó là lừa đảo, mã độc, và thay đổi giao diện, gây thiệt hại hơn 10.400 tỷ đồng. Hơn 10 nghìn trang/ cổng thông tin điện tử có tên miền “.vn” bị tấn công, chiếm quyền điều khiển, thay đổi giao diện, cài mã độc.
Có hơn 70% số máy tính bị lây nhiễm. Theo ghi nhận của Trung tâm ứng cứu khẩn cấp máy tính (VNCERT) thì quý I năm 2017 đã có gần 7.700 sự cố tấn công mạng vào các website tại Việt Nam. Tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ, đánh cắp công nghệ, bản quyền trên internet ngày càng gia tăng, nguy cơ gián điệp mạng, tội phạm mạng trở nên phức tạp và nguy hiểm. Các thông tin bịa đặt, không được kiểm chứng nhằm vu khống, bôi nhọ danh dự cá nhân, tổ chức diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng.
Tính đến năm 2023 có đến 70% tội phạm công nghệ cao là người trẻ, chủ yếu từ 18-30 tuổi. Có nhiều người sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin rất thành thạo và chuyên nghiệp. Tuy nhiên, họ đã không sử dụng những kiến thức, sự hiểu biết của mình để phục vụ cho xã hội mà lại thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Nhiều người dân bị tội phạm công nghệ cao lừa bằng cách đánh cắp thông tin cá nhân, rồi sau đó tiến hành làm thẻ ATM mới và đánh thông tin vào hòng chiếm đoạt tài sản. Một số đối tượng lừa đảo bằng cách giả mạo là bạn bè, người thân của một ai đó với lời kêu cứu bị mất vé máy bay, hết tiền điện thoại hay thậm chí đưa ra chiêu thức quảng cáo trúng thưởng nên nhờ người bị hại ra mua sim điện thoại, nạp tiền vào tài khoản của chúng. Để tránh sự nghi ngờ của người dân, các đối tượng phạm tội thường đưa ra mức tiền để nạp vào tài khoản không quá lớn. Người sử dụng Internet trong tâm thế hoảng hốt liền vội vã chuyển khoản, sau đó mới giật mình kiểm tra thì tiền đã biến mất.
Để đáp ứng được các yêu cầu phát hiện, điều tra tội phạm trong tình hình hiện nay, tác giả xin đưa ra một số ý kiến về kỹ thuật và phương pháp tiến hành các hoạt động điều tra như sau:
Thứ nhất, Cơ quan tiến hành tố tụng ở Việt Nam cần dựa trên các văn bản pháp luật được ban hành cùng các chính sách, biện pháp cụ thể đảm bảo an ninh trật tự trong phát triển các lĩnh vực khoa học - công nghệ nhằm phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao. Cụ thể, Việt Nam đã triển khai thực hiện có hiệu quả các Đề án thuộc Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm về “Đấu tranh phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao” gắn với thực hiện quy hoạch phát triển An ninh thông tin số quốc gia; Triển khai thực hiện các Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường triển khai các hoạt động đảm bảo an toàn thông tin số một cách chặt chẽ và hiệu quả.
Từ kết quả điều tra có thể nghiên cứu, đề xuất quy định rõ quyền năng pháp lý của lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm mạng trong tố tụng hình sự và thẩm quyền xử phạt hành chính, xây dựng dự thảo Nghị định về công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm và các hành vi vi phạm khác trong lĩnh vực sử dụng công nghệ cao trình Chính phủ ban hành. Bộ Công an đóng vai trò chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành hữu quan như Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước xây dựng Thông tư liên ngành về phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; chủ trì, phối hợp xây dựng Thông tư liên ngành giữa Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội danh liên quan đến lĩnh vực sử dụng công nghệ cao trong Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thứ hai, các cơ quan chức năng cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp để thu thập tài liệu chứng cứ, phối kết hợp với các đơn vị nghiệp vụ để chuyển hoá tài liệu trinh sát, củng cố về tài liệu tố tụng cũng như các chứng cứ điện tử phục vụ cho hoạt động điều tra đối với tội phạm mạng. Trên cơ sở rà soát, nghiên cứu tiếp tục đề xuất hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác đấu tranh với tội phạm sử dụng công nghệ cao, như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính… và tiếp tục củng cố vai trò của Bộ Công an chỉ đạo công tác xây dựng, phát triển lực lượng cảnh sát phòng, chống tội phạm mạng ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới, kiện toàn tổ chức bộ máy và triển khai thành lập các đơn vị cảnh sát phòng, chốngtội phạm mạng trực thuộc các phòng chức năng ở công an các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhằm xây dựng một hệ lực lượng cảnh sát phòng, chốngtội phạm mạng trên phạm vi toàn quốc.
Thứ ba, cần vận dụng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao; đặc biệt là đối với các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng và dịch vụ Internet, viễn thông; các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thanh toán điện tử và thương mại điện tử. Các cá nhân cũng cần phải có có trách nhiệm tham gia phòng ngừa tội phạm, phát hiện, kịp thời tố giác tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao với cơ quan Công an hoặc chính quyền cơ sở gần nhất; Phối hợp chặt chẽ với cơ quan chuyên trách trong quá trình xác minh làm rõ tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao, cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết có liên quan cho cơ quan chuyên trách khi được yêu cầu theo quy định của pháp luật. Phối hợp với các ngành chức năng trong các hoạt động triển khai ứng dụng công nghệ, thiết lập hệ thống phòng vệ để chủ động và nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm. Nâng cao ý thức cảnh giác của người quản lý, sử dụng công nghệ cao. Đồng thời cảnh báo, phòng ngừa việc lạm dụng, thiếu hiểu biết pháp luật dẫn đến vi phạm pháp luật trong sử dụng công nghệ cao, nhất là giới học sinh, sinh viên.
Thứ tư, Việt Nam cần phải tiếp tục kiện toàn tổ chức, lực lượng chức năng trong công tác tố tụng hình sự nhằm phát hiện, đấu tranh phòng chống các tội phạm sử dụng công nghệ cao, thường xuyên bồi dưỡng, bổ sung và nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cùng kiến thức tin học, ngoại ngữ cho các cán bộ điều tra, Điều tra viên, các thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp trên cơ sở Chỉ thị số 07/CT-BCA ngày 14/11/2023 về việc đổi mới, nâng cáo chất lượng, hiệu quả công tác lấy lời khai, hỏi cung bị can của lực lượng Cảnh sát nhân dân trong tình hình mới.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, tập trung trao đổi thông tin tội phạm, tranh thủ tài trợ các thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại và đào tạo cán bộ trình độ cao; Tăng cường phối hợp với các đơn vị có liên quan để giải quyết các yêu cầu phát hiện, xác minh, điều tra tội phạm một cách kịp thời, triệt để…
Trong thời đại 4.0 và sự phát triển vượt trội của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo, những phát triển công nghệ đã khiến cho những giao dịch được thực hiện không cần giấy tờ như trước đây. Việc tạo ra các tiêu chuẩn mới về tốc độ, hiệu quả và độ chính xác trong thông tin liên lạc, đã trở thành công cụ quan trọng để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và tăng năng suất tổng thể. Bên cạnh đó, máy tính được sử dụng rộng rãi để lưu trữ dữ liệu bảo mật về chính trị, xã hội, kinh tế hoặc thông tin cá nhân đã mang lại lợi ích to lớn cho xã hội. Không gian mạng trở thành một phần của lãnh thổ quốc gia, một phần không gian sống của con người. Cùng với đó, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ Internet và Máy tính trên toàn cầu đã dẫn đến sự phát triển của các hình thức tội phạm xuyên quốc gia đặc biệt là tội phạm liên quan đến Internet. Những tội phạm này hầu như không có ranh giới và có thể ảnh hưởng đến bất kỳ quốc gia nào trên toàn cầu. Do đó, cần nâng cao nhận thức và ban hành luật pháp cần thiết ở tất cả các quốc gia để phòng ngừa các tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Tội phạm sử dụng công nghệ cao gắn liền với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và viễn thông. Cùng với xu thế mới của thời đại,tội phạm mạng sẽ tiếp tục gia tăng. Chính vì vậy, cần tổ chức thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp cơ bản trên đây nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
Tóm tại, trước tình hình bùng nổ thông tin, tội phạm mạng cũng đang phát triển, cả về số lượng và tính chất nguy hiểm của nó. Để đáp ứng yêu cầu phát hiện, điều tra và xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao, trước hết, phải nhận diện được nó với đầy đủ phương thức, thủ đoạn, hành vị cụ thể, làm cơ sở lý luận để vận dụng vào thực tiễn điều tra, khám phá tội phạm sử dụng công nghệ cao.
Trung tá, TS Đỗ Thị Phương Thanh
bình luận (0)